Đình miếu làng Đông Hạnh - Di tích lịch sử cấp thành phố là công trình kiến trúc tín ngưỡng, trung tâm văn hoá truyền thống của cộng đồng dân cư làng Đông Hạnh, xã An Thọ, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Đình miếu làng Đông Hạnh toạ lạc tại làng văn hoá Đông Hạnh, thôn Hạnh Thị, xã An Thọ. Hàng năm, vào ngày 14 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch dân làng Đông Hạnh xã An Thọ lại tổ chức lễ hội truyền thống để tưởng nhớ công lao to lớn của các bậc tiền bối đã có công đấu tranh bảo vệ quê hương, khai cơ lập nghiệp, khai hoang đất đai, xây dựng xóm làng. Đồng thời tôn thờ các vị hậu thần có công với làng để tỏ lòng thành kính, biết ơn sâu sắc với tiền nhân. Truyền thống ấy đã trở thành nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người dân thôn Hạnh Thị xã An Thọ.
Đình, miếu làng Đông Hạnh, xã An Thọ, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng thuộc loại hình di tích lịch sử. Đình miếu làng Đông Hạnh hay còn gọi là Đình Đông Sông, miếu Ông, miếu Bà là những công trình đều được dựng từ khá lâu đời. Đình được dựng ít nhất năm 1699. Đình thờ 3 vị: Thiên quan tích phúc tôn thần, Tuy Hà mãnh tướng tôn thần và Bạt Hải Đình Lãng tôn thần làm thành hoàng của làng. Miếu Ông được dựng ít nhất năm 1688, miếu thờ vị Hưng Công. Miếu Bà được dựng ít nhất năm 1732 niên hiệu Long Đức thứ nhất, hiện chưa rõ thờ vị thần nào. Trải các triều vua, các vị thần được ban tặng sắc phong, cho phép nhân dân được hương khói phụng thờ dài lâu cùng đất nước. Các phong như: Tự Đức thứ 33 (1880) ban cho vị Bạt Hải, Đồng Khánh thứ 2 (1887) ban cho vị Thiên Quan, Thành Thái thứ 9 (1897) ban cho vị Mãnh Tướng và Duy Tân thứ 3 (1909) ban cho cả ba vị thần trên. Hiện chưa rõ sự tích, nhưng trong tâm thức của cộng đồng nhân dân địa phương, các ngài là những vị thần luôn linh thiêng, hiển ứng cứu nước, độ nhân, phù trì cho cuộc sống của nhân dân được khang thái, ấm no, hạnh phúc.
Đình, Miếu nằm giữa làng Đông Hạnh, Miếu có cảnh quan đẹp, quay về hướng Nam, trước mặt cách khoảng 2 km có dòng sông Văn Úc chảy qua, sau lưng có núi Kiến An làm thế tựa. Không gian quanh di tích đảm bảo được sự hài hoà, gần gũi giữa kiến trúc tín ngưỡng và khu dân cư. Đình quay hướng Tây, có bố cục mặt bằng hình chữ Đinh truyền thống gồm có 5 gian Tiền tế và 2 gian Hậu cung, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài. Kiến trúc công trình chủ yếu được xây dựng bằng vật liệu hiện đại xi măng cốt sắt. Toà Tiền tế có mặt bằng hình chữ nhật với 5 gian, nền được lát gạch hoa và cao hơn mặt sân 0.7m. Thành phần chịu lực chính của Tiền tế được dựng trên cơ sở các cột, rầm, xà bê tông để tạo thành 4 bộ vì kèo kiểu “chồng rường giá chiêng”. Hoa văn trang trí trên các hệ vì chủ yếu đắp vẽ hình rồng, hoa sen, lá lật, vân cụm. Trang trí trên hệ mái tòa Tiền tế là các đề tài: lưỡng long chầu hổ phù, kìm ngậm bờ nóc, bờ nóc và bờ dải gắn gạch hoa chanh, các đầu đao đắp tổ hợp rồng, lân, mây cuộn. Hệ khung chịu lực toà Hậu cung với các cột, vì nóc, vì nách được xây dựng chắc chắn và để trơn đắp vẽ trang trí. Phía trong cùng tòa Hậu cung, vị trí gần sát tường được xây bệ bê tông để làm nơi ngự của ba ngài Thành hoàng.
Miếu có bố cục mặt bằng hình chữ Đinh truyền thống với 3 gian Tiền tế và 1 gian Hậu cung, xây kiểu tường hồi bít đốc, mái làm kiểu bốn mái lợp ngói mũi hài. Hệ khung chịu lực toà Tiền tế được làm bằng vật liệu hiện đại xi măng cốt sắt với bộ vì nóc kiểu thức “chồng rường giá chiêng”, vì nách kiểu thức “chồng rường”. Trang trí hoa văn trên các cấu kiện kiến trúc được đắp vẽ nhiều đề tài phong phú như cánh sen trên các trụ đấu, các con rường, xà đắp lá lật, mây cụm. Trên hệ mái toà Tiền tế đắp vẽ trang trí các đề tài lưỡng long chầu, hổ phù, kìm nóc, phượng, lân...Hậu cung miếu được xây đơn giản với tường gạch. Tường vừa làm nhiệm vụ bao che cho công trình vừa có chức năng thay thế các cột để nâng đỡ hệ mái. Nhìn tổng thể, cụm công trình kiến trúc Đình, miếu làng Đông Hạnh mới được tân tạo. Song với cách xây dựng theo thức cổ truyền mái ngói đao cong, trang trí đắp vẽ các đề tài như rồng, lân, hổ phù... trên hệ mái đã góp phần làm cho cụm di tích mang dáng dấp truyền thống và linh thiêng.
Đình, miếu làng Đông Hạnh có lịch sử hình thành từ lâu đời. Bia “Hậu thần bi ký” được tạo tác niên hiệu Chính Hoà thứ 9 (1688), Chính Hoà thứ 11 (1690) đời vua Lê Hy Tông và bia “Hậu thần bi ký” niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 4 (1732) đời vua Lê Duy Phường cho biết Đình, miếu làng Đông Hạnh được dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII). Cách đây hơn 100 năm, đình nằm ở vị trí Đài Liệt sỹ xã An Thọ (giờ là cánh đồng màu và một phần đất người dân ở). Năm 1946, dân làng tháo dỡ một phần kiến trúc đình để chống càn. Năm 1968 - 1973, đình là nơi tập kết của 1 tiểu đoàn Tên lửa và đắp ụ đất trong khuôn viên đình. Năm 2009, đình được nhân dân địa phương phục dựng khang trang, to đẹp như hiện nay.
Hàng năm, tại đình, bản đình và nhân dân địa phương tổ chức lễ hội trong 3 ngày, từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch hàng năm. Trong đó: Ngày 14 cáo yết; Ngày 15 dâng lễ; Ngày 16 tế tạ, kết thúc dịp lễ hội. Lễ vật dâng thánh thường gồm: Thủ lợn, gà, xôi...Phần hội tổ chức các trò chơi dân gian truyền thống như: Cờ tướng, cờ người, kéo co. Diễn xướng văn nghệ có tổ chức giao lưu giữa các làng văn hoá. Ở miếu: Tổ chức lễ giỗ các vị hậu thần vào ngày 15 tháng 5 âm lịch hàng năm. Vào ngày 14 tổ chức cáo yết; Ngày 15 dân làng dâng lễ. Chiều tế tạ. Lễ vật thường có con lợn, bàn xôi. Vào tối ngày 14 thường có các tiết mục văn nghệ của làng.
Ngày nay nhân dân địa phương đang từng bước khôi phục để kế thừa và phát huy những nét sinh hoạt truyền thống tốt đẹp của quê hương. Với những giá trị lịch sử văn hóa quý giá đó, đình miếu làng Đông Hạnh vừa được UBND thành phố xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố. Ngày 5/3/2023 tức ngày 14 tháng 2 năm Quý Mão, nhân dân Làng Đông Hạnh xã An Thọ long trọng tổ chức lễ đón nhận bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố. Di tích lịch sử được công nhận lần này là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước của nhân dân ta trên mảnh đất quê hương An Thọ, dư âm của các vị tiền nhân vẫn vọng về như truyền thêm sức mạnh và hào khí cho các thế hệ con cháu của làng Đông Hạnh phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp văn minh.
HY